Cơ quan Hải quan chỉ dừng việc sử dụng bảo lãnh chung trên hệ thống khi tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt (nếu có) đã nộp đủ vào ngân sách nhà nước.

Liên quan đến vấn đề dừng sử dụng bảo lãnh thuế chung, Tổng cục Hải quan cho biết, theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Luật thuế XK, NK quy định: “Trường hợp đã được tổ chức tín dụng bảo lãnh nhưng hết thời hạn bảo lãnh mà người nộp thuế chưa nộp thuế và tiên chậm nộp thì tổ chức bảo lãnh có trách nhiệm nộp đủ thuế và tiền chậm nộp thay cho nguời nộp thuế”.
Bên cạnh đó tại điểm c khoản 4 Điều 43 Thông tư 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015 của Bộ Tài chính quy định: “Cơ quan Hải quan khi nhận được văn bản đề nghị dừng bảo lãnh chung của tổ chức tín dụng nhận bảo lãnh thì thực hiện dừng ngay việc sử dụng bảo lãnh chung đó trên Hệ thống, có văn bản thông báo cho tổ chức tín dụng việc chấp thuận dừng bảo lãnh chung với điều kiện tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt (nếu có) của các tờ khai đã sử dụng bảo lãnh chung đó đã được nộp đủ vào ngân sách Nhà nước”.
Căn cứ quy định trên, trường hợp có nhiều tờ khai hải quan sử dụng bảo lãnh chung, thì trước khi có văn bản đề nghị dừng bảo lãnh chung, tổ chức tín dụng phải nộp đủ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt (nếu có) của các tờ khai sử dụng bảo lãnh chung. Cơ quan Hải quan chỉ dừng việc sử dụng bảo lãnh chung trên hệ thống khi tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt (nếu có) đã nộp đủ vào ngân sách nhà nước.
Đối với vấn đề bảo lãnh thuế đối với hàng hóa kinh doanh tạm nhập tái xuất, Tổng cục Hải quan cho biết, hiện việc xử lý tiền đặc cọc và bảo lãnh thuế đối với hàng hóa kinh doanh tạm nhập tái xuất đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản 5 Điều 131 dự thảo Thông tu sửa đổi, bổ sung Thông tư 38/2015/TTBTC ngày 25/3/2015 của Bộ Tài chính, theo hướng: khi hàng hóa thực tái xuất thì cơ quan Hải quan hoàn trả tiền đặt cọc hoặc xác nhận hàng hóa đã tái xuất thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hoặc văn bản giấy để làm cơ sở cho người nộp thuế thanh khoản bảo lãnh với tổ chức tín dụng.




