Từ ngày 01/09/2016 hàng nhập khẩu loại hình nhập vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế. Trước đây loại hình này được quản lý bằng thuế tạm thu, Ân hạn thuế, hoàn thuế (không thu thuế) và xa hơn nữa là định mức nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm do doanh nghiệp xây dựng và nộp cho cơ quan hải quan trước khi xuất khẩu hàng hóa. Với các quy định cụ thể và được coi là chặt chẽ như trên, nhưng gian lận thuế đối với loại hình này kéo dài và chỉ được hạn chế khi lực lượng Kiểm tra sau thông quan lớn mạnh và theo kịp tình hình. Tuy nhiên nó chỉ có hiệu quả với các doanh nghiệp thực sự kinh doanh và chưa phản ứng kịp thời với những doanh nghiệp làm ăn theo kiểu chụp giật và lợi dụng chính sách thông thoáng để gian lận trốn thuế. Theo quy định hiện nay lọai hình này doanh nghiệp được miễn thuế, tự chịu trách nhiệm về định mức và cuối kỳ năm kế toán chỉ báo cáo cho cơ quan hải quan số tồn kho nguyên vật liệu. Đây là một thay đổi có tính đột phá và là một cú hích thúc đẩy loại hình này phát triển. Song đã hạn chế việc nắm bắt thông tin của cơ quan hải quan về từng thời điểm sử dụng nguyên liệu nhập khẩu của doanh nghiệp. Và đó có thể là mảnh đất màu mỡ để một số doanh nghiệp lợi dụng chính sách, gian lận và bỏ trốn.Vì vậy cần phải tìm phương thức quản lý riêng phù hợp với loại hình này.
Một tiêu chí phản ánh tổng hợp tình hình xuất khẩu nguyên liệu vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu đó là: trị giá nguyên liệu nhập khẩu của từng lô hàng xuất khẩu – viết tắt (TGNL). Tiêu chí được hình thành trên cơ sở số lượng từng loại sản phẩm xuất khẩu, định mức từng loại nguyên liệu nhập khẩu sản xuất sản phẩm xuất khẩu và đơn giá nhập khẩu từng loại nguyên liệu (CIF).
Khi có tiêu chí này thì từng thời điểm cơ quan hải quan biết được lượng nguyên vật liệu còn tồn ở từng doanh nghiệp về mặt trị giá. Phân tích được tốc độ sử dụng nguyên vật liệu so với tốc độ nhập khẩu nguyên vật liệu. Trong phạm vi quốc gia cho phép chúng ta biết được Trị giá Gia tăng đối với loại hình SXXK trên cơ sở so sánh Trị giá FOB/ TGNL đã xuất khẩu, hay tốc độ tăng trưởng loại hình này trong cùng thời kỳ vv… Ngoài ra số liệu này có thể so sánh với trị giá tồn kho cuối kỳ kế toán của từng doanh nghiệp (Trị giá tồn kho thường lớn hơn do còn cộng thêm các chi phí đưa hàng từ địa điểm nhập khẩu về kho doanh nghiệp). Tiêu chí này còn giúp doanh nghiệp chủ động quản lý số liệu của mình, và cũng cảnh báo rủi ro tìm ẩn phải đối diện với Kiểm tra của cơ quan chức năng khi số liệu bất thường.
Để chủ động thu thập chỉ tiêu này cần xây dựng tiêu chí trên tờ khai xuất khẩu sản phẩm và hướng dẫn doanh nghiệp khai báo khi đăng ký và truyền cùng dữ liệu Tờ khai hải quan xuất khẩu.
Thiết nghĩ chính sách là Nhà nước ban hành, việc quản lý để hoạt động có hiệu quả là của cơ quan Hải quan. Vì vậy chúng ta cần thay đổi phương thức quản lý doanh nghiệp phù hợp với chính sách Nhà nước trong giai đoạn mới, mà không ảnh hưởng đến việc thông quan hàng hóa./.
Nguyễn Văn Nhã – P.CCT Chi cục HQCK Cảng Hiệp Phước