Đó là ý kiến của Tổng cục năng lượng-Bộ Công thương tại văn bản phúc đáp Tổng cục Hải quan hướng dẫn về việc nhập khẩu than.
Theo đó, Tổng cục năng lượng viện dẫn Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 và Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện thì than là hàng hóa kinh doanh có điều kiện không cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh.
Đồng thời, Tổng cục năng lượng cũng nêu, tại Thông báo số 346/TB-VPCP ngày 26/8/2014 của Văn phòng Chính phủ truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc nhập khẩu than: “Các dự án điện của các Tập đoàn và các doanh nghiệp có nhu cầu nhập khẩu than trực tiếp phải được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ”, nhằm bảo đảm việc nhập khẩu than cho các nhà máy nhiệt điện có hiệu quả, duy trì nguồn cung ổn định dài hạn, chất lượng phù hợp với yêu cầu của nhà máy với giá cạnh tranh, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Do đó, Tổng cục năng lượng hướng dẫn, doanh nghiệp có nhu cầu nhập khẩu than trực tiếp để cung cấp cho sản xuất điện thì phải được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ.
Ngoài ra, trường hợp doanh nghiệp có nhu cầu nhập khẩu than cho sản xuất khác (không phải nhập khẩu than trực tiếp cho sản xuất điện) thì doanh nghiệp thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư, Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ và các quy định hiện hành khác có liên quan.
Được biết, 8 tháng đầu năm 2016, Việt Nam đã nhập khẩu hơn 9,7 triệu tấn than, với kim ngạch hơn 600 triệu USD. Tính ra, mỗi tháng, Việt Nam nhập khẩu 1,2 triệu tấn.
Hiện nay có đến 80% lượng than nhập về là để phục vụ cho các nhà máy nhiệt điện. Số than ngoại này bù cho phần than trong nước không đáp ứng được, chứ không phải để thay thế than sản xuất trong nước.
Theo dự báo, năm 2017, Việt Nam sẽ phải nhập 4 triệu tấn than cho điện và tăng dần qua các năm. Đến năm 2030 dự kiến sẽ nhập 7 triệu tấn than.
Duy Danh – Hải Quan Thành Phố Hồ Chí Minh